Oxy hòa tan là lượng oxy hòa tan trong nước, thường được ghi là DO, được biểu thị bằng miligam oxy trên một lít nước (mg/L hoặc ppm). Một số hợp chất hữu cơ bị phân hủy sinh học dưới tác động của vi khuẩn hiếu khí, tiêu thụ oxy hòa tan trong nước và oxy hòa tan không được bổ sung kịp thời. Vi khuẩn kỵ khí trong nguồn nước sẽ sinh sôi nhanh chóng và chất hữu cơ sẽ làm cho nguồn nước chuyển sang màu đen do bị ô nhiễm. Mùi hôi. Lượng oxy hòa tan trong nước là một chỉ số để đo khả năng tự làm sạch của nguồn nước. Oxy hòa tan trong nước bị tiêu thụ và chỉ mất một thời gian ngắn để khôi phục lại trạng thái ban đầu, cho thấy nguồn nước có khả năng tự làm sạch mạnh hoặc mức độ ô nhiễm của nguồn nước không nghiêm trọng. Ngược lại, điều đó có nghĩa là nguồn nước bị ô nhiễm nghiêm trọng, khả năng tự làm sạch yếu hoặc thậm chí khả năng tự làm sạch bị mất. Nó liên quan chặt chẽ đến áp suất riêng phần của oxy trong không khí, áp suất khí quyển, nhiệt độ nước và chất lượng nước.
1. Nuôi trồng thủy sản: đảm bảo nhu cầu hô hấp của sản phẩm thủy sản, theo dõi hàm lượng oxy theo thời gian thực, báo động tự động, cung cấp oxy tự động và các chức năng khác
2. Giám sát chất lượng nước tự nhiên: Phát hiện mức độ ô nhiễm và khả năng tự làm sạch của nước, ngăn ngừa ô nhiễm sinh học như phú dưỡng các nguồn nước.
3. Xử lý nước thải, các chỉ tiêu kiểm soát: bể kỵ khí, bể hiếu khí, bể sục khí và các chỉ tiêu khác được sử dụng để kiểm soát hiệu quả xử lý nước.
4. Kiểm soát sự ăn mòn của vật liệu kim loại trong đường ống cấp nước công nghiệp: Cảm biến với dải đo ppb (ug/L) thường được sử dụng để kiểm soát đường ống, đạt nồng độ oxy bằng 0, ngăn ngừa rỉ sét. Cảm biến này thường được sử dụng trong các nhà máy điện và thiết bị nồi hơi.
Hiện nay, máy đo oxy hòa tan phổ biến nhất trên thị trường có hai nguyên lý đo: phương pháp màng và phương pháp huỳnh quang. Vậy sự khác biệt giữa hai phương pháp này là gì?
1. Phương pháp màng (còn gọi là phương pháp phân cực, phương pháp áp suất không đổi)
Phương pháp màng sử dụng nguyên lý điện hóa. Một màng bán thấm được sử dụng để tách catốt bạch kim, anode bạc và chất điện phân khỏi bề mặt bên ngoài. Thông thường, catốt gần như tiếp xúc trực tiếp với lớp màng này. Oxy khuếch tán qua màng theo tỷ lệ thuận với áp suất riêng phần của nó. Áp suất riêng phần của oxy càng lớn, lượng oxy đi qua màng càng nhiều. Khi oxy hòa tan liên tục xuyên qua màng và đi vào khoang, nó sẽ bị khử tại catốt để tạo ra dòng điện. Dòng điện này tỷ lệ thuận với nồng độ oxy hòa tan. Bộ phận đo được xử lý khuếch đại để chuyển đổi dòng điện đo được thành đơn vị nồng độ.
2. Huỳnh quang
Đầu dò huỳnh quang có nguồn sáng tích hợp phát ra ánh sáng xanh lam và chiếu sáng lớp huỳnh quang. Chất huỳnh quang phát ra ánh sáng đỏ sau khi được kích thích. Vì các phân tử oxy có thể lấy đi năng lượng (hiệu ứng dập tắt), thời gian và cường độ của ánh sáng đỏ bị kích thích có liên quan đến các phân tử oxy. Nồng độ tỷ lệ nghịch với nhau. Bằng cách đo độ lệch pha giữa ánh sáng đỏ bị kích thích và ánh sáng tham chiếu, và so sánh với giá trị hiệu chuẩn bên trong, có thể tính toán nồng độ của các phân tử oxy. Không có oxy nào bị tiêu thụ trong quá trình đo, dữ liệu ổn định, hiệu suất đáng tin cậy và không bị nhiễu.
Chúng ta hãy phân tích nó cho mọi người theo mục đích sử dụng:
1. Khi sử dụng điện cực phân cực, hãy làm nóng ít nhất 15-30 phút trước khi hiệu chuẩn hoặc đo.
2. Do điện cực tiêu thụ oxy, nồng độ oxy trên bề mặt đầu dò sẽ giảm ngay lập tức, vì vậy điều quan trọng là phải khuấy dung dịch trong quá trình đo! Nói cách khác, vì hàm lượng oxy được đo bằng cách tiêu thụ oxy, nên sẽ có sai số hệ thống.
3. Do phản ứng điện hóa diễn ra liên tục, nồng độ dung dịch điện phân liên tục bị tiêu hao, do đó cần bổ sung dung dịch điện phân thường xuyên để đảm bảo nồng độ. Để đảm bảo dung dịch điện phân không bị sủi bọt, khi lắp đặt màng, cần loại bỏ tất cả các khoang chứa dung dịch.
4. Sau mỗi lần thêm chất điện phân, cần phải thực hiện một chu kỳ hiệu chuẩn mới (thường là hiệu chuẩn điểm không trong nước không có oxy và hiệu chuẩn độ dốc trong không khí), sau đó, ngay cả khi sử dụng thiết bị có chức năng bù nhiệt độ tự động, thì cũng phải gần với nhiệt độ của dung dịch mẫu. Tốt hơn là hiệu chuẩn điện cực ở nhiệt độ của dung dịch mẫu.
5. Trong quá trình đo, không được để lại bọt khí trên bề mặt màng bán thấm, nếu không, bọt khí sẽ được coi là mẫu bão hòa oxy. Không khuyến khích sử dụng trong bể sục khí.
6. Do nguyên nhân trong quá trình sản xuất, đầu màng tương đối mỏng, dễ bị thủng trong môi trường ăn mòn nhất định và tuổi thọ ngắn. Đây là vật tư tiêu hao. Nếu màng bị hỏng, cần phải thay thế.
Tóm lại, phương pháp màng có sai số về độ chính xác dễ bị sai lệch, thời gian bảo trì ngắn và thao tác cũng phức tạp hơn!
Phương pháp huỳnh quang thì sao? Do nguyên lý vật lý, oxy chỉ được sử dụng làm chất xúc tác trong quá trình đo, nên về cơ bản quá trình đo không bị ảnh hưởng bởi các yếu tố bên ngoài! Các đầu dò có độ chính xác cao, không cần bảo trì và chất lượng tốt hơn về cơ bản có thể được sử dụng không cần giám sát trong 1-2 năm sau khi lắp đặt. Phương pháp huỳnh quang có thực sự không có nhược điểm không? Tất nhiên là có!
Thời gian đăng: 15-12-2021